Comptes rendus de lecture
Comptes rendus de lecture
Pierre Brocheux & Daniel Hémery
Indochine la colonisation ambiguë (1858-1954), Paris, La Découverte, 1994, 427 p.
RFI, section vietnamienne, 2 juin 1996
Nền thuộc địa Đông Dương và sự nhập nhằng của sử học
40
năm sau Hiệp định Genève, một
cuốn sách được ra mắt với độc giả Pháp để làm sáng tỏ một phần nào
những động lực đã thúc đẩy Pháp đi chiếm thuộc địa Đông Dương, và phân
tích những nhược điểm nội bộ ở các nước bị xóa tên trên hoàn cầu. Đây
là một công trình sử học mới của hai tác giả, Pierre Brocheux và Daniel
Hémery, mang tựa đề
Indochine, la colonisation ambiguë : 1858-1954.
Giới sử học
và những ai chú trọng đến Đông Nam Á nói chung
và Việt Nam nói riêng, đều biết đến Pierre Brocheux và Daniel Hémery.
Hai nhà sử học này khi viết cuốn sách có ước vọng "vượt ra khỏi những
ký ức", để làm sáng tỏ tình hình nhập nhằng của nền thuộc địa từ ngày
Pháp bắt đầu nổ súng vào cảng Sài gòn năm 1858 cho đến khi họ phải rút
lui khỏi Đông Dương sau Hiệp định Genève 1954. Tựa đề
Indochine, la
colonisation ambiguë mà ta có thể tạm dịch là "Đông Dương, cái thuộc địa nhập
nhằng", đã tóm tắt lại toàn vẹn đề cương của cuốn sách.
Sách được cấu
tạo bằng phương pháp tiến trình toàn diện, đề cập đến cả ba nước Đông
Dương qua những lãnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội và
dựa vào một nguồn tư liệu phong phú. Trong chương đầu, Daniel Hémery tô
bầy ra những yếu tố và những khối lực đã thúc đẩy nền Đệ nhị đế chế
Pháp đi chiếm các thuộc địa ở Á Châu. Yếu tố chính là sự bành trướng
của đế quốc Pháp trong bối cảnh tranh giành ảnh hưởng và thế lực giữa
các cường quốc ở giữa thế kỷ 19 như Anh, Đức và Hà Lan. Theo tác giả
này, đây là vấn đề sống còn của Pháp, tức là nếu Pháp không bành trướng
thế lực thì sẽ bị các cường quốc khác loại bỏ. Yếu tố thứ hai liên quan
đến vấn đề truyền đạo. Để gây lại uy tín, vì ảnh hưởng của thiên chúa
giáo bị sa sút tại Pháp sau các cuộc cách mạng ở thế kỷ 19, các cố đạo
và thế lực của họ đã vận dụng và lợi dụng sự đàn áp tín đồ và các cố
đạo dưới thời Minh Mạng-Tự Đức, để lấy cớ thúc đẩy chính quyền Pháp
phải can thiệp bằng bạo lực vào Việt Nam, và để sau đó được "tự do
truyền đạo". Ngoài ra yếu tố kinh tế cũng đáng chú trọng. Động cơ của
nền thuộc địa là công nghiệp dệt và ngành kim luyện. Vào giai đoạn đó,
tư bản Pháp đã đạt đến mức phát triển cao. Để kiếm lối thoát cho sự ứ
đọng về mặt tiêu thụ, họ cần đến những thị trường mới, trong đó Trung
Hoa được coi là mục tiêu.
Tiếp theo đó, Daniel Hémery phân tích các
nhược điểm của triều Nguyễn và nhận định rằng sự chia rẽ nội bộ, sự
khước từ đòi hỏi khẩn của người Pháp muốn vào lãnh thổ Việt Nam để buôn
bán, tình trạng lệ thuộc giữa bá chủ Trung Hoa và các nước chư hầu láng
giềng, đã tạo ra một thời điểm thuận lợi cho nền thuộc địa. Tóm lại,
Đông Dương đã trở qua tay người Pháp là vì Trung Hoa đã phải bỏ vai trò
bá chủ trong khu vực. Hay nói một cách khác thì đây là sự gặp gỡ của ba
yếu tố: vai trò của Trung Hoa, sự căng thẳng nội bộ ở các nước trong
thời gian bị chiếm và đế quốc Pháp. Dĩ nhiên là sự chiếm đoạt Đông
Dương không được dễ dàng nên sau nửa thế kỷ người Pháp mới "bình định"
được toàn khu vực. Vì đối diện với họ là các nho sỹ trung thành với nhà
Nguyễn như phong trào Cần Vương ở cuối thế kỷ trước, hay những cuộc nổi
dậy của các dân dộc thiểu số ở Boloven bên Lào, hoặc sự kháng cự ở Cao
Mên do hoàng thân Si Votha lãnh đạo. Nguyên nhân của những cuộc thất
bại được phân tích :
- 1. sự
chênh lệch về mặt quân sự thì đã rõ ràng ;
- 2. ngoài óc bảo thủ như khẩu hiệu "bình tây sát tà", các
phong trào đó không có dự thảo về mặt cải tạo xã hội để đối đáp lại ý
đồ của người Pháp. Riêng về Việt Nam, Daniel Hémery nhấn mạnh rằng chế
độ thuộc địa được thành hình không phải chỉ do sự chiếm đọat mà còn do
những tiến trình nội bộ mà một số người Việt đã hưởng ứng. Nói một cách
khác thì một số quan lại và thân hào Việt Nam đã cõng rắn cắn gà nhà.
Qua chương
thứ hai, cuốn sách này phô bầy lại bộ máy thống
trị do người Pháp lập ra và sự phân chia Đông Dương thành nhiều quy chế
khác nhau theo chính sách chia để trị. Trong giai đoạn này chính quyền
thuộc địa còn phải tìm ra một mô hình mới để cai trị, cho nên phải đợi
đến khi toàn quyền Doumer nhận chức năm 1897 thì Đông Dương mới thực sự
có một chính phủ thuộc địa xuyên qua bộ máy hành chánh. Một thí dụ điển
hình của bộ máy thống trị là Sở Mật Thám do toàn quyền Albert Sarraut
sáng lập năm 1917 để đối phó với hệ ý thức quốc gia. Điều đáng nêu ý
nơi đây là người chỉ huy Sở Mật Thắm đồng thời cũng là chánh Văn phònh
chính trị, một điều hiếm có trong guồng máy chính phủ. Kể từ đó chính
quyền thuộc địa được tự do khai thác tài sản, khai hoang để làm đồn
điền, đáp ứng cho phát triển kinh tế, chủ yếu là xuất khẩu gạo. Từ 1870
đến 1928 trọng lượng gạo xuất khẩu đã tăng lên gấp bốn, đạt tới
1.797.000 tấn. Sau khi vấn về tiền tệ được thống nhất và chính thức
hóa, Ngân hàng Đông Dương được độc quyền phát hành tờ bạc Đông Dương
trị giá là 10 quan. Nguồn lợi tức đáng kể khác là của ba mặt hàng :
muối, rượu và thuốc phiện. Sau khi trưng dụng đất đai thì chính quyền
thuộc địa áp dụng hai biện pháp :
- 1. bán đấu giá ;
- 2. nhượng địa cho người thuộc địa với điều kiện là họ
phải khai khẩn.
Nêu hai thí dụ : năm 1931 hơn 1 triệu ha đất trồng trọt
thuộc về quyền sở hữu của thuộc địa ; năm 1938 bốn nhóm tài chánh lớn
kiểm soát 70 % diện tích đồn điền cao su.
Còn về lãnh
vực văn hóa xã hội, những biến chuyển, mối quan
hệ giữa người thuộc địa và người bản sứ thì do Pierre Brocheux đảm
nhiệm. Ở đây, tác giả này phác họa lại sự phát triển của các đô thị như
Sài Gòn, Hải Phòng và Hà Nội, sự phân chia xã hội, mối bất bình giữa
chính quyền thuộc địa và một số người thuộc địa, những bất công, những
nhục nhã mà các dân tộc bị thống trị phải hứng chịu. Sự tiếp xúc giữa
hai nền văn hóa đã biến đổi bộ mặt xã hội và tạo ra ở trong Nam một
giai cấp tư sản mới, chủ yếu là các địa chủ như Gilbert Chiểu. Cũng về
lãnh vực văn hóa, ở đây tác giả họa lại những gì người Pháp đã thực
hiện như chính sách đồng hóa, cải tạo chương trình giáo giục và xóa bỏ
hệ thống thi cử cũ, những công cụ thông tin và tuyên truyền như báo
chí, đài phát thanh và điện ảnh. Chính quyền thuộc điạ thành lập trường
Quốc Học Huế với nhiệm vụ đào tạo giới quan lại mới để thay thế các nhà
nho. Trường Đại học Đông Dương được thành lập năm 1907 với mục đích là
kềm chế tinh thần quốc gia nhưng qua năm sau phải đóng cửa và cho tới
năm 1917 mới mở cửa lại. Đồng thời các trường tiểu học được thành lập ở
các huyện và một vài trường trung học ở các đô thị lớn như Hà Nội và
Sài Gòn. Cũng trong năm 1917, chính quyền Pháp cho ra mắt tạp chí Nam
Phong và để Phạm Quỳnh làm chủ bút. Họ đã đưa nhân vật Phạm Quỳnh
ra làm biểu tượng cho thế hệ trí thức mới để che dấu với quần chúng vai
trò chủ động của họ.
Phần thứ hai
là sự phản công của xã hội Việt Nam. Thế hệ
trẻ được đào tạo trong hệ thống giáo dục mới, cũng như một số nhà nho
đã không chiụ bó tay mà còn nắm lấy cơ hội để hiện đại hóa xã hội. Đáng
kể là phong trào Đông Kinh Nghiã Thục xuất hiện năm 1907, đã
huy động đồng bào học chữ quốc ngữ. Nhưng phải đợi đến thập kỷ 20 và 30
thì mới thành hình một lớp trí thức mới với ý nguyện cải tạo xã hội về
mặt tư tưởng và văn hóa. Trong hai thập kỷ này hàng loạt các báo chí do
chính người Việt chủ động đã ra đời và phổ biến những kiến thức mới về
khoa học, kỹ thuật, văn hóa, chính trị và tư tưởng. Chẳng hạn tờ Phụ
Nữ Tân Văn đã đi xung phong cho phong trào giải phóng phụ nữ khỏi
những kềm chế gia đình và truyền thống lạc hậu. Năm 1926, Nguyễn An
Ninh có nhận định rằng "Để chống lại một tổ chức đàn áp kiểu mới thì
phải có một tổ chức kháng chiến mới". Con đường đó đưa một số người tới
tư tưởng quốc gia còn những người khác thì gia nhập vào chủ nghĩa cộng
sản. Những cuộc bãi khóa, đình công, những sự kiện như Yên Bái,
sô viết Nghệ Tĩnh, sự thành hình của các tổ chức đối
lập công khai hay bí mật đã làm thay đổi thế cờ ở thuộc địa. Mặc dầu
các phong trào đấu tranh phải trả gía rất đắt bằng tù tội hay sinh
mạng, chính quyền thuộc địa không còn làm chủ tình hình mà phải chuyển
qua thế thủ. Và từ đó, tình hình thế giới, sự liên kết giữa các tổ chức
cộng sản thế giới và nhất là đệ nhị thế chiến là những cơ hội để những
người mang mộng giải phóng đất nước, lấy lại được niềm tin và quyết
liệt đối đầu với nền thống trị Pháp. Điện Biên Phủ đã kết thúc và giải
tán nền đô hộ đó. Không cần dài giòng nữa, đây là một công trình sử học
mà hai tác giả muốn đóng góp để thúc đẩy xã hội Pháp nhìn lại quá khứ.
Qua phần
giới thiệu sách, có thể nhiều thính giả sẽ tự hỏi
là chúng ta phải hiểu nghĩa chữ "ambiguë" (nhập nhằng) như thế
nào ?
Cái ý niệm
"ambiguë" là trọng tâm, là điều quan trọng nhất
của công trình này. Vì tất cả được nối khớp vào nhau qua cái ý niệm đó.
Ta tạm dùng từ "nhập nhằng" để dịch cái ý niệm này. Theo hai nhà sử học
này thì sự nhập nhằng trong nền thuộc địa nó đa dạng và nếu nhận xét
tổng quát thì đây là một nền thuộc địa nhập nhằng. Chẳng hạn như một
mặt thì đàn áp nhưng mặt khác lại xây dựng, thậm chí còn truyền đạt
những tư tưởng hiện đại. Nhập nhằng trong nội bộ Pháp, có nhiều người
ủng hộ và tuyên truyền cho nền thuộc địa và một số người khác, mặc dầu
hiếm hơn lại chống lại tư tưởng của thuộc địa và thậm chí nghiêng về
phía những dân tộc bị thống trị. Nhập nhằng ở điểm có những người bị
thống trị lại tiếp tay cho nền thống trị. Nhập nhằng nữa là chính kẻ bị
thống trị lại tận dụng những công cụ, vũ khí của đối phương (về mặt tư
tưởng cũng như về mặt đấu tranh) để đối phó lại đối phương, v. v. Nhưng
ta phải nhìn nhận là quyền lực của thống trị cũng như mọi quyền lực
khác đều có lô gíc riêng của nó, và cái lô gíc đó có bao giờ nhập nhằng
đâu. Trường học hay nhà tù đều nằm gọn trong cái lô gíc đó cả. Vì không
một quyền lực nào, hay một chế độ nào có thể tồn tại lâu dài nếu chỉ
dựa vào trấn áp và bạo lực. Muốn được tồn tại lâu dài hơn thì nó cũng
phải dựa vào sự ưng thuận của những người đặt dưới quyền cai trị. Sự
ưng thuận này có nhập nhằng hay không, đó là một vấn đề khác. Chứ quyền
lực của nền thuộc địa có vượt ra khỏi cái lý luận này đâu. Bởi thế nên
bên cạnh nhà tù lại có thêm những trường học.
Hai tác giả này còn có ước vọng vượt ra khỏi ký ức để tìm
hiểu sự thành hình của nền thuộc điạ, thế thì kết quả có gì đáng chú ý ? Có thể nói
là vì hai tác giả đó muốn vượt ra khỏi ký ức,
nên đã tránh dùng từ "colonialisme", tức là chủ nghiã thực dân. Cũng vì
lý do đó nên về mặt tư tưởng, gianh giới giữa chủ nghiã thực dân và nền
thuộc địa, có hay không, không được hai nhà sử học này đề cập đến.
Nhưng ta có thể tự hỏi là chủ nghiã thực dân và nền thuộc địa có thể
tách rời ra nhau được không ? Nếu có thì chủ nghĩa thực dân có nhập
nhằng hay không ? Như chúng ta biết thì không thể nào tách rời sử học
ra khỏi người viết sử, nếu sử học nhập nhằng thì chắc những nhà sử học
cũng nhập nhằng.
Ngoài sự
thúc giục của những cố đạo, sức ép của giới kinh
doanh, thái độ của môt số trí thức, và những cuộc tranh luận hạn hẹp
tại quốc hội trong thời kỳ đầu, cuốn sách này không cho ta biết rõ về
dư luận quần chúng ở Pháp trong quá trình thành hình của nền thuộc địa.
Chỉ trong phần kết, Pierre Brocheux nhắc tới dư luận Pháp trong giai
đoạn 1945-1954, đặc biệt là những đảng viên Đảng Cộng Sản Pháp chống
chiến tranh, mà không nhắc qua cho biết là năm 1947 các bộ trưởng của
ĐCSP cũng như các bộ trưởng khác đã bỏ phiếu thuận cho quỹ chiến tranh,
trong khi đó các dân biểu của ĐCSP lại bỏ phiếu chống. Đây là điều nhập
nhằng rõ rệt, mà cuốn sách không nhắc tới.
Để kết luận bài giới thiệu cuốn sách của Pierre Brocheux
và Daniel Hémery chắc chúng ta có thể hướng về sử học Việt Nam ...
Đây là một công trình đáng để giới sử học Việt Nam suy
nghĩ. Suy nghĩ để tìm hiểu quá khứ vì quá khứ sẽ giải thích được một
phần nào cho hiện tại và tương lai. Xưa và nay bao giờ cũng có liên hệ
mật thiết. Nói như thế là đã đi vào đường lối của Hội sử học ở Việt
Nam. Và cũng hy vọng rằng Hội sử học Việt Nam sẽ cho ra mắt độc giả
những công trình tương đương để chúng ta cùng tham luận và cùng suy
nghĩ.
Sommaire de la rubrique
|
Haut de page
|