Comptes rendus de lecture

Comptes rendus de lecture




Trần Quốc Vượng
Trong cõi
Californie, Trăm hoa, 1993, 287 tr.

RFI, section vietnamienne, 8 septembre 1996



Trăm năm trong cõi người ta,
chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.


Hai câu thơ của Nguyễn Du đã trở thành gần như câu ca dao với người Việt chúng ta. Và Trong cõi cũng là tựa đề một cuốn sách của giáo sư sử học Trần Quốc Vượng do "Trăm Hoa" xuất bản năm 1993 ở bên Mỹ.
Cuốn Trong cõi gồm 17 bài trong đó có 5 bài viết ở nước ngoài trong thời gian giáo sư Trần Quốc Vượng đi giảng dạy ở bên Mỹ năm 1991. Trong lời bạt của nhà xuất bản Trăm Hoa có viết : "Điều làm chúng tôi chú ý, một phần vì kiến thức uyên thâm của ông về văn hóa, lịch sử, khảo cổ, truyền thống dân gian, một phần vì những phát biểu của ông có rất nhiều tính độc lập của một người trí thức. (...) Đã có hàng triệu người rời bỏ quê hương để đi tìm một cuộc sống tự do no ấm hơn. Hàng triệu sự liều lĩnh đã trở nên bình thường, tẻ nhạt. Nhưng khó hơn nhiều lần, là những người ở lại gắn bó với quê hương bất kể đói nghèo, khổ cực. Và khó hơn nữa, là những kẻ đang từ chỗ ấm thân vẫn quay về, dù biết trước những đòn thù chụp xuống". (hết lời dẫn)

Mặc dầu trong tác phẩm này sử gia Trần Quốc Vượng có công bố một vài kết quả và kinh nghiệm điền dã, Trong cõi không phải là một cuốn sử theo hiểu biết thông thường mà là những suy nghĩ về lịch sử, những ý kiến về truyền thống, những phân tích về tình trạng đất nước của ngày hôm nay, là tiếng vọng của người trí thức chân chính bị gánh nặng của một giai đoạn lịch sử đè nén. Trong nỗi cô đơn đó, con én Trần Quốc Vượng vẫn hăng say đóng góp để tạo một mùa xuân trên đất nước, mùa xuân của cả mọi người sống trong hoà bình, hoà hợp và hoà giải dân tộc, mùa xuân của độc lập tư tưởng, của sự thật lịch sử. Vì độc lập tư tưởng nên nhà sử học không ngần ngại công bố những điều đi ngoài dòng lịch sử, những sự thật còn nằm trong bóng tối hay những ý kiến về huyền thoại dân gian đã được hay là đã bị lịch sử hoá. Trong quá trình nghiên cứu và suy nghĩ, nhà giáo nổi tiếng này đã cố nạo bỏ lớp vỏ lịch sử bên ngoài để đi tìm chiều sâu của huyền thoại ở bên trong vì (xin dẫn) : "Mối bận tâm của người Việt cổ là cái huyền và mối bận tâm của ta là cái thật" (hết lời dẫn).

Trong tiến trình đó nhà sử học đã nêu ý kiến Hội Gióng là tết mưa dông, là một nghi lễ nông nghiệp trong tín ngưỡng cầu mưa. Nhưng trong Hội Gióng lại còn vết tích Đông sơn trong tục thờ mặt trời, vì con ngựa sắt của thánh Gióng khạc lửa phi về Đông rồi từ Đông phi về Tây. Điều đó tượng trưng cho sự vận động của mặt trời. Tóm lại theo ông Trần Quốc Vượng thì khởi thuỷ huyền tích Gióng là huyền tích về mặt trời và Hội Gióng là nghi lễ nông nghiệp cầu trời "mưa nắng phải thì". Cũng về lãnh vực truyền thống dân gian, bài "Triết lý bánh chưng bánh dầy" cho biết lương thực của người Việt cổ là xôi chứ không phải cơm. Xu hướng "tẻ hoá" của nhà nông trồng lúa nước do áp lực dân số và nhu cầu tăng năng xuất lúa, mới dần dà phát hiện từ thời Lý-Trần. Và từ đó xôi chỉ dùng trong các giỗ chạp, tết nhất, cưới xin, ma chay. Tức là "xôi" đã đi vào lãnh vực có tính chất thiêng liêng và nhường lại cho "cơm" ở phạm vi thường tục. Sau này các món xôi mới lại được bình thường hoá trong đời sống. Một trong những thể hiện của gạo nếp là bánh chưng bánh dầy. Đây là sản phẩm chung của cả vùng Đông Nam Á nếu không nói là Đông Á chứ không phải sản phẩm riêng của Việt Nam. Có điều cần chú ý hơn là bánh tét lại là tiền thân của bánh chưng, vì "bánh tét" tức là "bánh tết" đọc trạnh ra kiểu miền Nam. Mà bánh tét thì hình dài chứ không vuông như bánh chưng. Sở dĩ người ta gán hình vuông của bánh chưng để tượng trưng cho Đất là triết lý Trung Hoa được hội nhập muộn màng vào triết lý Việt Nam, chứ không phải là triết lý dân gian Việt Nam. Bởi vì bánh tét tròn dài tượng trưng cho Dương vật, như cái chày, cái nõ, và bánh dầy tròn và dẹt thì tượng trưng cho Âm vật, như cái cối, cái nường.

Mấy điều nhận xét trên đây, kết quả của những năm tháng khảo cứu và suy tư tỏ cho ta thấy rằng những sự việc thông thường nhất với đời sống lại chứa đựng nhiều ý nghĩa ẩn kín, và nếu ai muốn đi tìm những ý nghĩa đó thì phải gạt ra những ý nghĩa thông thường, những định kiến vì đó chỉ là cái vỏ, tức là phải đi ngược lại với chiều hướng thông thường mà mọi người đã tin tưởng rằng đó là điều dĩ nhiên. Và muốn thực hiện điều này, thì phải đi ngược chiều gió chứ không như theo câu tục ngữ bị biến dạng "gió chiều nào theo chiều ấy", và muốn thế thì tư tưởng phải được độc lập. Nhờ có sự độc lập đó, nên Trần Quốc Vượng đã cho công bố kinh nghiệm điền dã trong một bài viết mang tựa đề "Nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức nho gia". Bài viết này đề cập đến các khía cạnh còn nằm trong bóng tối về các nhân vật lịch sử như Trương Hán Siêu và Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Đặng Trần Côn, Lê Quí Đôn, và Nguyễn Sinh Huy, thân sinh ra chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở đây tác giả không dựa vào tư liệu lịch sử, vì làm gì có, nhưng chỉ dựa vào những lời truyền miệng dân gian để đặt lại chỗ đứng của các nhân vật này, đưa ra ánh sáng các mặt trái trước kia còn bị che đậy. Mặt trái chung của các nhân vật nói trên đều có liên quan đến chuyện lý lịch.

Xã hội Việt Nam từ trước đến giờ vẫn theo thời, tức là "conformiste". Khi một người đã "nổi tiếng" và "làm lớn", thì những người viết tiểu sử của người đó thường phô trương những cái đẹp và che đậy những cái xấu. Nhưng ở đây bề trái của các nhân vật kể trên không phải là xấu, mà nó phản ánh những thành kiến hẹp hòi của xã hội, của những kẻ nhân danh lịch sử viết lại lịch sử, nhân danh quần chúng tự sửa đổi theo ý họ để rồi tạo ra những hình ảnh giả tạo. Riêng về Lê Quý Đôn thì nhà bác học này không phải con trưởng, mà người mẹ của ông cũng không phải là vợ cả của ông nghè họ Lê, cha của Lê Quý Đôn, như chính sử thường đã viết. Vấn đề là ở chỗ đó. Còn Chu Văn An thì khi ông từ bỏ mũ áo của quan trường về ẩn dật tại nông thôn lại không về quê mẹ, mà lại sang làng bên dạy học để sinh sống. Vốn người cha của Chu Văn An là người Hoa tới trú ngụ ở một làng quê Việt Nam. Theo lệ của làng ngày xưa thì người tới ngụ cư phải đóng góp ba đời mới được coi là dân làng. Vì lẽ đó Chu Văn An mặc cảm là người ngụ cư nên không về quê mẹ là làng Thanh Liệt. Và cũng vì lẽ đó ở làng Thanh Liệt không còn gì về vết tích của Chu Văn An.

Gần với thế hệ chúng ta hơn là Nguyễn Sinh Huy. Thực ra ông không phải dòng dõi họ Nguyễn mà là con của ông đồ Hồ Sỹ Tạo và Hà Thị Hy, một nghệ nhân. Hà Thị Hy có mang với ông đồ nhưng lại phải lấy một người khác. Sau này Nguyễn Sinh Huy thi đạt, lập gia đình và sinh ra Nguyễn Tất Thành, tức là Nguyễn Ái Quốc hay Hồ Chí Minh sau này. Lời truyền miệng dân gian còn cho rằng sau này Nguyễn Ái Quốc đổi tên là Hồ Chí Minh vì ông biết ông nội đích thực của ông là Hồ Sỹ Tạo. Ngoài những điều vừa được nêu trên thì có thể nói một trong nỗi ám ảnh của tác giả là vị trí và vai trò của người trí thức trong xã hội Việt Nam. Theo tác giả thì đất nước hiện nay chỉ có những nhà trí thức chứ không có giới trí thức. Qua sự tiếp xúc thì giáo sư Trần Quốc Vượng có giải thích thêm : Việt Nam là một nước nông nghiệp, người cộng sản Việt Nam có căn tính nông dân, trí thức thì được tạo trên nền tảng tiểu nông, thế thì làm sao có được một giới trí thức. Giáo sư Vượng lại cho biết thêm là chính ông Hồ Chí Minh ngày xưa cũng đã nói là "nước mình có đoàn kết quái gì đâu". Về tinh thần đoàn kết thì có thể nói là người Việt Nam chỉ đoàn kết khi nào có ngoại xâm. Hết ngoại xâm thì hết đoàn kết, và hết mọi vấn đề. Nếu ai có vấn đề gì thì cũng phải chịu đắng nuốt cay một mình thôi. Mà nếu là trí thức thì lại hay nói hay đàm hay suy nghĩ, suy nghĩ chứ không phải tính toán vì người giỏi tinh giỏi toán thì đâu còn thì giờ để suy nghĩ nữa và ngược lại người hay suy nghĩ thì đâu còn thì giờ để tính với toán. Điều đáng buồn là trong giai đoạn gần đây người ta khinh rẻ trí thức đến nỗi ví họ với "cục phân", gọi là "tụi", là "bọn lắm chuyện" cho đến nỗi dân gian phải thốt lên câu "cấm ăn cấm nói cấm cười, cấm ba điều ấy còn vui nỗi gì". Óc hẹp hòi đó và mặc cảm tự ti đã đưa đến tình trạng thất thoát nhân tài : một Đào Duy Anh, một Trần Đức Thảo, một Nguyễn Mạnh Tường đã bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nhưng dù sao đi nữa, sử gia Trần Quốc Vượng vẫn là một trí thức có uy tín được thế giới bên ngoài chú ý đến nhiều, một người bất cơ, không lệ thuộc, không xu thời chỉ phụng sự cho lẽ phải. Điều đó còn thể hiện qua cách dùng từ ngữ. Chẳng hạn như câu "Tôi tuổi con chó, sinh sau đảng bốn năm" ; hay là "tụng kinh Mác xít" ; hoặc thay vì viết "thi hương", "thi hội", "thì đình" như mọi người thì lại viết "thi Nho" ; v.v. Có điều ông giáo sư này lại hay đùa, chẳng hạn như câu "cậu là đảng viên nhưng mà tốt". Nhưng đã có bao nhiêu người đã được Trần Quốc Vượng đùa bằng câu châm biếm đó. Nếu mọi đảng viên đều được đùa như thế thì câu đùa đó sẽ trở thành vô nghĩa.

Để kết thúc lời giới thiệu cuốn Trong cõi, và nếu phải bình luận thì người đọc tiếc rằng tác giả không nêu ra những nối tiếp hoặc những đứt đoạn trong xã hội Việt Nam đi từ nho giáo tới chuyên chính vô sản theo mô hình của Staline hay của Mao Trạch Đông. Và những đứt đoạn hay những liên tục đó có phải là tình trạng riêng biệt của Việt Nam không ? Dĩ nhiên là tác giả đã suy nghĩ nhiều về điều đó và hy vọng một ngày gần đây, nhà sử học sẽ công bố để mọi người cùng suy nghĩ về quá trình lịch sử đất nước.


Sommaire de la rubrique
Haut de page