Communications aux colloques
Communications aux colloques
Vài nhận xét về những trở ngại trên đường dân chủ hóa và phát triển ở Việt Nam
Vài nhận xét về những trở ngại trên đường dân chủ hóa và phát triển ở Việt Nam
Communication
faite au colloque organisé à Liège les 7 et 8 août, 1999
par un groupe informel de Vietnamiens à l'étranger, avec la participation de deux chercheurs vietnamiens du Vietnam
Phát triển cái gì, Phát triển cho ai, phát triển để làm gì ?
Có lẽ đây là ba câu hỏi cốt yếu khi người ta đề cập đến vấn đề phát triển,
và nếu khi người ta ý thức được tầm quan trọng của nó thì không thể nào người ta
không phân tích những ưu thế cũng như những yếu điểm của chính mình.
Tức là phải biết hiện tại tài nguyên của mình có những gì, mình có những
phương tiện nào, mình cần những gì, phải thực hiện những kế hoạch nào đề đạt
mục tiêu, và mục tiêu đó là gì. Và điều dĩ nhiên là những người có trách nhiệm định
đoạt tình thế này phải là những nhà chuyên môn, những nhân viên nhiều kinh nghiệm
thực hiện những dự án có quy mô nhà nước, những cố vấn có trình độ kỹ thuật cao.
Nếu dự án phát triển phải thông qua các tổ chức quốc tế thì phải có những nhân viên
quen thuộc với môi trường quốc tế, với xu hướng của thời đại. Chẳng hạn
trong hiện tại vấn đề môi trường ngày càng được chú ý, lực lượng tranh đấu
cho môi trường ngày càng mạnh, vấn đề ô nhiễm do kỹ nghệ và xe hơi gây ra
trở thành nan giải, trong bối cảnh này ta nên phát triển theo xu hướng nào :
xây cất nhà máy để sản xuất xe hơi hay hiện đại hoá các xí nghiệp sản xuất xe đạp ?
Đó là hai chiều hướng hoàn toàn đối lập nhau về phương tiện, về mục đích cũng
như về chiều hướng phát triển. Một bên thì cần đến những phương tiện kỹ thuật tới tân,
tức là phụ thuộc nước ngoài về kỹ thuật ; phải có vốn đầu tư lớn tức là phụ
thuộc vốn nước ngoài ; có xe nhưng hệ thống giao thông không theo kịp, tạo nên
những rối loạn giao thông, tai nạn, v.v., đó là chưa nói đến cách lái xe ở Việt Nam là
mọi người đều bất chấp luật giao thông. Trong khi đó xe đạp là phương tiện giao thông
rất thuận tiện cho các thành phố trung bình như ở Việt Nam. Thị trường tiêu thụ xe đạp
ngày càng mở rộng ở các nước kỹ nghệ. Các công chức cao cấp ở Hà Lan thậm chí
cả bộ trưởng đi làm bằng xe đạp là chuyện bình thường. Đây không có nghĩa là dẹp
bỏ hoàn toàn xe hơi nhưng chỉ dùng phương tiện này trong những trường hợp phải
cần đến như cứu thương, vận tải, và nếu cần thì ngay cả trực thăng cũng phải dùng đến.
Điều cần nhấn mạnh ở đây là phát triển không thể nào bỏ rơi yếu tố môi trường.
Kinh nghiệm của phát triển cho thấy là càng phát triển thì môi trường càng bị phá hủy
và ô nhiễm, và nếu cứ để cho phát triển vô bờ bến thì một ngày nào đó không xa,
loài người sẽ không còn cả môi trường để sống. Trong khi đó chú trọng đến môi
trường không đồng nghĩa với chống lại phát triển mà là phát triển theo chiều hướng khác,
cũng có nghĩa là tiêu thụ khác đi - không có nghĩa là kém đi . Tài nguyên của lòng đất
có hạn định. Không thể nào loài người của cả thế giới có thể một ngày nào đó có đủ tiện
nghi, mức sống ngang hàng với các mức sống của người Mỹ hay người Âu Châu.
Cái đó chỉ là ảo ảnh của những nước nghèo, chạy theo ảo ảnh đó là bước chân vào
vòng phụ thuộc guồng máy phát triển do các nước phát triển cao kiểm soát và
đặt quy luật. Chẳng hạn, nếu mọi người trên thế giới đều tiêu thụ như người Mỹ
thì dự trũ dầu khí sẽ cạn chỉ trong vòng 11 năm
[18]. Một vài con số khác có
thể minh họa cho quan hệ Bắc-Nam, quan hệ và sự chênh lệch giữa các nước giầu
và các nước nghèo :
Nợ của các nước đang phát triển
[19]
Đầu thập kỷ 70 |
Cuối thập kỷ 70 |
1982 |
1990 |
dưới 100 tỷ $ |
600 tỷ $ |
732 tỷ $ |
xxxx |
Theo báo cáo của Chương trình phát triển của LHQ (
Programme de développement
des Nations Unies) mới đây thì tài sản của ba nhà tỷ phú giầu nhất thế giới
cao hơn tổng sản lượng của các nước chậm phát triển, và cao hơn tài sản của hơn
600 triệu người của các nước này ; khoảng cách thu nhập giữa 1/5 những người giầu
nhất và 1/5 những người nghèo nhất trên thế giới là 30 lần năm 1960 và năm 1997
là 74 lần ; hàng ngày có tới 1500 tỷ $ được chuyển từ thị truờng tài chánh này tới thị
trường tài chánh khác trên thế giới. Chi phí cho hai ngày nằm nhà thương ở Mỹ
tương đương với thu nhập bình quân của hơn hai tỷ nông dân nghèo trên thế giới
[20].
Còn về lãnh vực kỹ thuật thì Tổ chức quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ
(
Organisation mondiale de la propriété intellectuelle - OMPI) cho biết là giữa
thập kỷ 90 thì ở Châu Phi 95 %, ở Châu Mỹ La Tinh 85% và ở Châu Á 70% các bằng
phát minh thuộc quyền sở hữu của các tư nhân và các công ty lớn ở các nước kỹ nghệ cao,
tức là hầu hết các hoạt động của đời sống ở các nước nghèo đều phụ thuộc các
nước giầu
[21].
Một lãnh vực có thể nói là rất quan trọng đối với bất cứ nước nào đó là năng lượng.
Một câu hỏi rất đơn sơ là nên dồn tất cả tài nguyên nhân lực vào một nguồn năng luợng
chẳng hạn như dầu khí hay nên đa dạng hóa các nguồn năng lượng? Nếu chỉ cho
phát triển một nguồn, vì một lý do nào đó nguồn này bị trục trặc thì nó sẽ làm
tê liệt tất cả các guồng máy phụ thuộc vào nguồn năng lực này, đó là chưa nói
đến tình trạng chiến tranh. Một nhà máy hạt nhân cung cấp điện cho cả nước hơn
hay mỗi một đơn vị hành chánh hoặc mỗi một làng việt nam có nguồn năng lực
riêng tùy khả năng và tài nguyên của mình hơn ? Nếu phát triển được đi đôi với
dân chủ như nhiều người mong muốn
[22], thì tất cả những vấn đề quan trọng -
và phải định nghĩa rõ ràng thế nào là một vấn đề quan trọng - liên quan trực tiếp đến
đời sống của người dân thì người dân có quyền định đoạt cho tương lai của mình.
Nhìn qua hệ thống cung cấp năng lượng của một nước ta có thể thấy óc sáng suốt
của giới lãnh đạo và trình độ dân chủ của nước đó tới đâu. Trong kỷ nguyên mới này,
năng lượng sẽ càng ngày càng được đa dạng hóa nhờ khoa học và kỹ thuật đã
khám phá và đã sản xuất đuợc năng lượng từ nhiều nguồn khác nhau như năng lượng
mặt trời, của gió, của thủy triều, của lòng đất, v.v. Vấn đề lựa trọn năng lượng thật là
quan trọng vì đó là lựa trọn tương lai cho cả một nước.
Những năm sau Đổi mới ở trong nước cũng có bàn luận về phát triển, các mô hình
sẵn có. Giới khoa học cũng có tham gia và kiến nghị, cũng có người đã không ngần ngại
tỏ bầy ý kiến của mình và phát biểu là Việt Nam phải đi tìm một hướng đi riêng cho mình.
Tới đây thì các nhà chính trị có thẩm quyền hỏi lại ngay là : Hướng đi đó đã có ai đi chưa ?
Nhà khoa học trả lời đại khái là : Chưa. Vì đó là con đường mới mà mình đang đi tìm.
Nhà chính trị không chịu nổi tư thế gàn này nên cắt ngang cuộc thảo luận : Nếu chưa
có ai đi thì mình đi làm gì ! Thế là tàn một giấc mơ cho tương lai, chỉ vì ngựa
quen đường cũ. Người ta không dám rời bỏ bước chân của kẻ khác. Bởi vì lẽ đó,
tương lai nhiều khi chỉ là quá khứ được lập lại trong môi trường khác mà thôi.
Và nếu là kẻ đi sau thì đúng ra phải tránh được các lầm lẫn của kẻ đi trước
[23] và nếu
sáng suốt thì có thể biến những nhược điểm thành ưu điểm, đó cũng là một trong
những nghịch lý của luật phát triển. Cuối thập kỷ 80 là thời điểm thuận lợi cho Việt Nam
để suy nghĩ và lựa trọn cho mình một hướng đi riêng biệt. Thà phải mất một vài
năm nghiên cứu và cân nhắc để có thể làm chủ tình hình còn hơn là chạy theo người khác
để rồi sau này không biết mình sẽ đi về đâu, nhưng Việt Nam đã trọn vết lăn của
bánh xe chạy trước, vết xe của Singapour. Không cần phải là những nhà thông thái
mới biết là không thể nào áp dụng mô hình phát triển của Singapour vào Việt Nam
một cách máy móc được, vì ít nhất hai lý do :
- Singapour là một nước mới được thành lập gần đây nên không bị những mãnh lực
của truyền thống (hàng nghìn năm như ở Việt Nam) cản trở ;
- vì dân số ít nên thành phần xã hội ở Singapour cũng vừa khác vừa thuần
nhất hơn thành phần xã hội ở Việt Nam, một nước nông nghiệp - 70% dân số là
nông dân sống rải rác khắp miền lãnh thổ. Trong khi đó khoảng 80% dân số
singapour là gốc hoa quen với đời sống ở thành thị tuy họ là những người di cư,
- những người đã từng làm lại cuộc đời từ con số không - , có nghĩa là đã vật lộn
với đời sống ở hải ngoại nhờ óc kinh doanh sẵn có.
Ơ đây cũng thế, người ta có thể vay, mượn, mua, hay thuê những phương tiện
kỹ thuật hay vật chất nhưng làm sao có thể vay mượn được tinh thần của một quốc gia
khác ? Muốn có tinh thần nào đó thì không có con đường nào khác hơn là phải học
hỏi lại từ đầu - tức là phải có cơ sở đào tạo, có chuyên viên, có các nhà giáo và có
môi trường thuận tiện cho tinh thần đó được nẩy nở . Nếu chỉ đi lối tắt như Việt Nam
thì chắc là thành quả cũng sẽ bị tắt. Ơ quy mô hay mức độ nào cũng thế,
nếu mình lười suy nghĩ thì chắc chắn là sẽ có kẻ khác suy nghĩ hộ mình.
Và khi những suy nghĩ đó được thành hình thì liệu còn đủ thời gian để trở tay hay không ?
Nếu Việt Nam không chú ý đến bối cảnh của thời đại như đã được nêu ở trên thì chắc
là con đường phát triển ở Việt Nam sẽ chệch hướng và tôi có cảm tưởng là Việt Nam
đã đi chệch hướng từ nhiều năm nay rồi.
N. V. Ký, 11 juin 2009.
Chú thích
[18]. Carfantan J-Y., Condamines Ch., sđd, tr. 189.
[19].
Đầu thập kỷ 80 René Dumont đã lên án các món nợ này vì cho là đó
chỉ là hậu quả của các cuộc trao đổi buôn bán bất bình đẳng, một phần của
những cuộc cướp bóc hợp pháp. Xem :
Dumont R. & Mottin M.-F.,
Le mal-développement en Amérique latine,
Paris, Editions du Seuil, Coll. Points-Politique, 1982, 281 tr.
[20].
Carfantan J-Y., Condamines Ch., sđd, tr. 189.
[21].
Maréchal J.-P., « Quand la biodiversité est assimilée à une marchandise »,
trong
Le Monde Diplomatique, juillet 1999.
[22].
Nhất là trong các thập niên 80 và 90, nhiều nhà chính khách như cố tổng thống
pháp François Mitterrand thường nhắn nhủ các nước thiếu dân chủ như Việt Nam
là phải gắn liền dân chủ với phát triển và theo luận điểm này thì nếu thiếu dân chủ
thì không thể nào phát triển được. Điều này không hẳn đúng lắm vì ngay cả một
chế độ độc tài như Đức Quốc Xã cũng phát triển đáng kể trước Đệ nhị thế chiến.
[23].
Những nước nghèo có nên thèm thuồng những cảnh kẹt xe cả chục cây số
ở các nước phát triển làm lãng phí năng lượng không ? Cũng ở các nước phát
triển người ta chi phí rất nhiều để bảo vệ sức khỏe nhưng đến lúc chết vẫn phải
một mình đối diện với bốn bức tường trong nhà thương.
Sommaire de la rubrique
haut de page