Communications aux colloques
Communications aux colloques
Vài nhận xét về những trở ngại trên đường dân chủ hóa và phát triển ở Việt Nam
Vài nhận xét về những trở ngại trên đường dân chủ hóa và phát triển ở Việt Nam
Communication
faite au colloque organisé à Liège les 7 et 8 août, 1999
par un groupe informel de Vietnamiens à l'étranger, avec la participation de deux
chercheurs vietnamiens du Vietnam
Trước khi nhập đề tôi xin lưu ý cùng các anh, các chị và các "đồng tha hương"
là bài tham luận này không mang đủ tính chất nghiên cứu chuyên ngành
mà chỉ là một vài nhận xét chung về một vấn đề phức tạp đó là dân chủ
và phát triển ở Việt Nam.
Điều thứ hai mà tôi muốn lưu ý với cử tọa là khi chúng ta là những người
của thế giới nghèo nàn (nghèo nàn về vậy chất, nghèo nàn về tư tưởng,
nghèo nàn về tự do, nghèo nàn về kiến thức, nghèo nàn về khoa học kỹ thuật
cũng như nghèo nàn về khoa học xã hội và nhân văn, nghèo nàn cả về cả
những hình thức giải trí, tiêu khiển) đề cập đến dân chủ thì không thể nào
không dựa vào những thành quả cũng như những thiếu sót sơ hở của nền dân chủ
tây phương để làm điểm tựa, vì dù sao đi nữa thì nền dân chủ cũng được thành hình
ở Tây Phương trước khi trở thành một làn sóng có khả năng bành trướng trên
toàn thế giới.
Cơ cấu hình thành của một nền dân chủ
[voir postface]
Nhận xét đầu tiên của riêng tôi, trong khi đọc các bài viết bằng tiếng pháp liên quan
đến đề tài này là trong ngôn ngữ việt nam thiếu cả đến từ ngữ để diễn đạt tất cả
những ý tưởng tinh vi và tế nhị do sự phát triển của khái niệm dân chủ sinh ra
.
Cũng có thể là tôi không tìm ra các từ ngữ phải cần đến vì không phải là chuyên viên
trong các lĩnh vực này (ngôn ngữ, luật...). Trong thập kỷ 20 khi Nguyễn An Ninh
dịch cuốn
Du contrat social của J. J. Rousseau có lúc phải cần đến cả ba từ ngữ tuy khác
nhau nhưng tu bổ cho nhau là "dân ước", "dân quyền", và "dân đạo" để dịch từ social
của tiếng pháp . Một tỷ dụ khác là chúng ta dùng cùng một từ "hiến chương"
để dịch hai từ tiếng pháp khác nhau là
constitution và charte (trong
Charte des Nations Unies
chẳng hạn). Sự phát triển của ngôn ngữ đi đôi với sự phát triển các lãnh vực của đời sống
và các hoạt động trong xã hội. Nếu thiếu từ ngữ để diễn đạt ý tưởng thì liệu có
phương tiện nào khác để thoát khỏi giới hạn này không ? Những khó khăn trong dịch thuật
trong lãnh vực này cũng đã là một cản trở trên đường dân chủ hóa.
Tưởng cũng nên cân nhắc lại hai khái niệm "dân chủ" và "phát triển" để biết nó hàm chứa
những gì trong hiện tại. Dân chủ có thể là một yêu sách, một nhu cầu, hay là một giá trị
được hình thành sau quá trình của nó. Sự tiến hóa của khái niệm dân chủ trong
thời kỳ cận đại đã trải qua ba giai đoạn :
- dân chủ là phương tiện của tự do ;
- dân chủ là công cụ cho công lý ;
- và cuối cùng dân chủ trong các xã hội phát triển ở Phương Tây đang tiến đến vai trò
kiểm soát tập thể về lãnh vực tăng tưởng kinh tế (contrôle de la collectivité sur la
croissance économique) .
Nhưng trước khi trải qua ba giai đoạn này thì nền dân chủ phải được thực sự hình thành đã,
và nó chỉ được hình thành nếu hội nhập đủ các yếu tố cốt yếu. Nhìn qua lại quá trình
của các nền dân chủ tây phương thì các yếu tố đó gồm có :
- tư tưởng làm nền móng cho dân chủ, chẳng hạn tư tưởng của Thế kỷ
Anh sáng ở Pháp ;
- truyền thống dân chủ - nếu lấy mốc là hiện tại, - hiện tại ở đây có nghĩa là sản phẩm
của quá khứ ;
- lực lượng dân chủ có thể huy động các thành phần xã hội để cùng tranh đấu
cho dân chủ.
Quá trình hoạt động của lực lượng này sẽ tạo ra những kinh nghiệm,
những ý tưởng, những suy nghĩ, những hình thức tổ chức, những công cụ để giải toả
những bế tắc, những phương thức điều hoà, v.v. Và điều cốt yếu ở đây là phải trọng
tinh thần đối thoại và tranh luận bình đẳng, đối thoại để thuyết phục cho lẽ phải chứ
không phải thuyết phục để tranh phần thắng về mình. Dĩ nhiên là ba yếu tố này có
liên quan chặt chẽ với nhau nếu không nói là chúng hoàn toàn lệ thuộc lẫn nhau :
truyền thống dân chủ cao bao nhiêu thì lực lượng dân chủ
mạnh và tư tưởng dân chủ được tôn trọng bấy nhiêu. Chúng ta có thể vay mượn tư tưởng
của nước ngoài nhưng làm sao có thể vay mượn được truyền thống dân chủ của người ta ?
Và nếu không có truyền thống thì làm thế nào để có lực lượng dân chủ ? Không có truyền
thống thì làm thế nào để có kinh nghiệm dân chủ ? Và muốn có kinh nghiệm dân chủ thì
phải có một môi trường thuận tiện cho các hoạt động dân chủ. Nếu nhìn dân chủ từ góc độ
dân số thì theo thống kê năm 1989, người ta nhận thấy là lứa từ 0 đến 30 tuổi chiếm 35%
dân số , tức là số người sinh ra trước và sau vài năm
đất nước thống nhất năm 1976,
trong đó một phần bây giờ là giới trẻ. Lớn lên trong bối cảnh lịch sử Việt Nam mà chúng ta
biết thì làm sao giới trẻ này được chứng kiến những hoạt động dân chủ. Tinh thần dân chủ
đâu có cơ hội nào để ghi sâu vào ký ức của họ thì làm sao họ có thể khao khát dân chủ
được, làm sao họ có thể trở thành những cái loa cho dân chủ được. Rút cục lại thì ở
Việt Nam ý thức dân chủ chỉ có thể hấp dẫn lứa tuổi trung niên (50 tuổi trở lên) từng
va trạm, từng chứng kiến các hoạt động dân chủ, hoặc đang thấm nhuần ý tưởng này
trong quá trình tự tìm hiểu những tư tưởng chính trị trên thế giới.
Riêng đối với xã hội việt nam, những trang sử cận đại cho thấy là tranh đấu giải phóng
dân tộc lại hình như dễ hơn tranh đấu cho dân chủ. Đương đầu với kẻ ngoại xâm hình
như dễ thu hút người hơn đương đầu với chính mình. Có thể là mình dễ "thông cảm"
với chính mình hơn, nên vấn đề liên quan đến dân chủ chỉ thu hút được một thành phần,
một thành phần quá ít để trở thành một lực lượng. Như thế có phải là nếu có đủ
lực lượng dân chủ thì nền dân chủ sẽ được thực hiện hay không ? Trước khi trả lời câu
hỏi này chắc cũng nên tìm hiểu xem nguyên tắc của các hoạt động dân chủ ra sao
và những hạn chế của dân chủ tới mức độ nào.