I n é d i t s

I n é d i t s




Chanson vietnamienne

Chanson vietnamienne




Un échantillon de la chanson vietnamienne moderne.



trait


trait



Khúc ca ngày mùa (Nghe)

Kìa thôn quê dưới trăng vàng bát ngát
Ánh trăng thanh chiếu qua làng xơ xác
chiếu hồn quê bao khúc ca yêu đời

Mừng trăng lên chúng ta cùng múa hát
Ước mong sao lúa hai mùa thơm ngát
Lúa về mang bao khúc ca tuyệt vời

Lờ lững trôi qua trôi mãi trong chiều tà
tiếng tiêu buồn êm quá
Hồn ngất ngây trong tiếng hát đưa nhịp nhàng
tiếng cười thơ ngây
Mịt mùng đêm thâu cung hằng chênh chếch
bóng khuất sau rặng tre
Tiếng ai hò chập chùng xa đưa
Hò là hò lơ hó lơ hò lơ
Nầy anh em ơi !
Giã cho thật đều,
giã cho thật nhanh
Giã cho khéo kẻo trăng phai rồi
khoan hò khoan tiếng chày khua vang mãi trong đêm dài.

Cười lên đi trăng sắp tàn bóng xế
Hát lên đi để nung lòng nhân thế,
để đồng xanh vui khúc ca ngày mùa
để đồng xanh vui khúc ca ngày mùa

Ánh trăng lơi.
Tiếng sương rơi
Rơi khắp thôn làng sầu đầy vơi
Tiếng hát câu hò lờ đờ trôi
Tiếng lòng tràn ngập hồn quê

Le chant des récoltes (Écouter)

Regardez la campagne sous le clair de lune immense
Sa lumière sereine éclaire à travers le village indigent
Éclaire l'âme du pays : que des chansons à faire aimer la vie

Pour fêter le lever de la lune nous dansons et chantons
Souhaitons que le riz soit parfumé pour les deux récoltes
Le riz amène tant de chants merveilleux

Voguant solitairement à travers la fin d'après-midi
Le son triste de la flûte est mélodieux
L'âme est enivrée par le chant bien rythmé
Par le rire innocent
Dans la nuit obscure l'ombre du croissant de lune se cache derrière la rangée de bambous
Un chant provient de loin mais de qui
la la la la la
Eh frères et soeurs !
Pilons au rythme
Pilons rapidement
Pilons avant que la lune ne se décolore
hé pi eh pon, le son des pilons résonne encore longtemps dans la nuit

Rions, la lune va s'éclipser
Chantons pour raviver le coeur des humains
Pour que les rizières vertes fêtent le chant des récoltes
Pour que les rizières vertes fêtent le chant des récoltes

Le clair de lune négligé
Le son de la rosée qui tombe
Qui tombe sur tout le village, plein de tristesse
Les chants voguent paresseusement
Le son du coeur déborde l'âme du village



Haut de page
trait


Tình hoài hương (Nghe)

Quê hương tôi, có con sông dài xinh xắn
Nước tuôn trên đồng vuông vắn
Lúa thơm cho đủ hai mùa
Dân trong làng trời về khuya vẳng tiếng lúa đê mê

Quê hương tôi có con sông đào ngây ngất
Lúc tan chợ chiều xa tắp
Bóng nâu trên đường bước dồn
Lửa bếp nồng, vòm tre non, làn khói ấm hương thôn!

Ai về, về có nhớ, nhớ cô mình chăng?
Tôi về, về tôi nhớ hàm răng cô mình cười ơ ơ ớ
Ai về mua lấy miệng cười
Để riêng tôi mua lại mảnh đời, thơ ngây thơ ơ ớ ơ ơ ờ

Quê hương ơi! Bóng đa ôm đàn em bé
Nắng trưa im lìm trong lá
Những con trâu lành trên đồi
Nằm mộng gì?
Chờ nghe tôi thổi khúc sáo chơi vơi.

Quê hương ơi! Tóc sương mẹ già yêu dấu
Tiếng ru nỗi niềm thơ ấu
Cánh tay êm tựa mái đầu
Ôi bóng hình từ bao lâu còn ghi mãi sắc mầu

Tình hoài hương
Khói lam vương tâm hồn chìm xuống
Chiều soay hương!
Sống vui trong mối tình muôn đường
Tình ngàn phương!
Biết yêu nhau như lòng đại dương
Người phiêu lãng
Nước mắt có về miền quê lai láng
Xa quê hương
Yêu quê hương

Le mal du pays (Écouter)

À mon pays [1] , il y a un long et joli canal
Ses eaux inondent les rizières carrées
Le riz parfume pour les deux saisons
Dans la soirée les villageois font résonner le riz enivré


À mon pays, il y a une longue digue étourdie
Quand se termine le marché lointain de l'après-midi
Les ombres brunes sur les routes se pressent
Le feu ardent de la cuisine, la touffe du jeune bambou, la fumée qui réchauffe le village

Celui qui rentre se souvient-il d'elle ?
Moi je rentre, je me rappelle ses dents quand elle rit

Celui qui rentre achète le rire aux lèvres
Pour que moi, je puisse racheter seul un coin de vie innocente


Oh mon pays ! L'ombre du banian qui embrasse les enfants
Le soleil de l'après-midi silencieux dans le feuillage
Des buffles doux sur la colline
Que rêvent-ils ?
Attendent-ils que je joue un morceau de flûte solitaire

Oh mon pays ! Les cheveux blancs de la mère bien-aimée
Les berceuses au temps de l'enfance
Le bras doux pour reposer la tête
L'ombre du passé bien lointain garde encore toutes ses couleurs

Quelle nostalgie !
La fumée bleue s'éparpille, l'âme s'immerge
L'après-midi change de direction
Vivre joyeux avec un amour de toutes les routes
L'amour de mille directions
Savoir s'aimer comme le coeur de l'océan
L'aventurier,
Verse-t-il ses larmes pour le pays qui s'épanche
Loin du pays !
Aimer son pays !



Notes

[1]. Dans cette chanson, "pays" veut dire le "pays natal".

Haut de page
trait


Le poète Hữu Loan (1916-2010)


Le poème Màu tím hoa sim, mis en musique par le compositeur Pham Duy, est sans doute l'une des plus célèbres chansons vietnamiennes des années 1960, 1970 dans le Sud-Vietnam [1].

Ce poème a été écrit par le poète Hữu Loan en 1949 sur la tombe de sa femme trop tôt disparue. L'auteur était militaire dans les rangs vietminh. Après le mariage il a rejoint ses camarades au front et sa femme restée au pays s'est noyée peu de temps après son départ. Le poème a circulé parmi les amis de Hữu Loan pendant des années avant d'être publié dans la revue Trăm Hoa du poète Nguyễn Bính en 1956, l'année de tous les espoirs pour le monde des Arts et des Lettres au Nord-Vietnam. Mais le mouvement des « Cent Fleurs » vietnamien s'est mal terminé [2] : les auteurs frappés d'interdiction de créer, certains envoyés à la campagne pour la rééducation, etc., etc.

Ce poème d'une grande tristesse a valu par la suite à son auteur les pires ennuis avec les autorités qui lui reprochaient d'être trop sentimentaliste, d'avoir préféré son histoire d'amour à la cause nationale, d'avoir porté atteinte au moral des troupes. On était en pleine guerre d'Indochine.

Hữu Loan quitte alors le parti communiste et se réfugie à la campagne dans son pays natal, la province de Thanh Hoá après avoir connu des privations et la rééducation par le travail. Il a dû peiner, lutter pour survivre car les autorités lui ont interdit d'exercer quoi que ce soit comme métier.

En cherchant des moyens d'existence, il a compris le principe paysan qui consiste à avoir trois éléments essentiels : un lopin de terre, une mare et un abri pour les bêtes (volaille surtout sinon cochon dans l'hypothèse optimiste) : C'est le système VAC [3] que les ethnologues vietnamiens ont théorisé et systématisé dans leurs interventions en faveur de la campagne vietnamienne. Huu Loan revendique cette création mais c'est un principe de vie qui existe depuis longtemps chez les paysans vietnamiens lesquels ne se soucient pas de théorie.

Mais le poème de Huu Loan connaît une deuxième naissance en 2004 quand la petite société informatique Vitek lui proposa d'acheter les droits pour 100 millions de đồng [4], ce qu'il accepta. Huu Loan vient de nous quitter à l'âge de 95 ans. Chaque vie de cette génération d'intellectuels est un monde rempli de tristesse et d'injustice. Une génération sacrifiée.
1er avril 2010

photo photo

Màu tím hoa sim(Nghe)

Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng còn chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.

Tôi là người chiến binh xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân,
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi!

Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê ...

Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh ...

Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi!
Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông thấy nhau một lần.

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình
Đèn khuya
Bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa...

Một chiều rừng mưa
Ba người anh
Trên chiến trường Đông Bắc,
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng.

Gió sớm thu về
Rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió thu về
Cỏ vàng chân mộ chí.

Chiều hành quân
Qua những đồi sim ..
Những đồi hoa sim ...,
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết

Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa.
Áo tôi sứt chỉ đường tà,
Vợ tôi chết sớm mẹ già chưa khâu

Le mauve des fleurs de Sim (Écouter)

Elle avait trois frères partis à l'armée
Certains, petits, ne parlaient pas encore
Quand elle était toute jeune

Militaire loin de la famille
Je l'aimais comme ma propre soeur
Le jour du mariage elle n'a pas demandé une robe de mariée
J'étais en uniforme militaire
Les chaussures à clous chargées de boue des routes d'opérations
Elle riait, mignonne
À côté du mari original
Je revenais de l'unité
Et repartis après le mariage

Depuis la zone de combat lointaine
J'éprouvais de la compassion :
Se marier en temps de guerre
Combien reviendraient une fois partis
Si on ne revenait pas
On compatit : la femme qui attendait
La petite de l'après-midi au pays

La personne qui était morte ne fut pas le combattant
Mais la petite femme restée à l'arrière
À mon retour je ne l'ai plus revue
La mère assise à côté de la tombe de sa fille
Dans l'obscurité
Le vase du jour de mariage
Est devenu un brûle-parfum
Entouré par le froid...

Dans sa jeunesse
Ses cheveux étaient trop courts pour être coiffés
Ma chérie !
Les dernières minutes
Nous n'avons pas pu nous entendre parler
Nous revoir une fois

Autrefois elle aimait les fleurs mauves de sim
Sa tunique était de cette couleur
Autrefois seule
La lampe dans la nuit tardive
La petite ombre
Elle raccommodait la chemise du temps passé de son mari

Une après-midi de pluie dans la forêt
Les trois frères
Sur le front du Nord-Ouest
Apprirent la nouvelle du décès de leur soeur
Avant celle de son mariage

Le vent d'automne précoce
Provoquait de petites vagues dans la rivière
Les petits frères avaient grandi
Et regardèrent étrangement la photo de leur soeur
Quand le vent d'automne revenait
L'herbe a jauni au pied de la tombe

Une après-midi d'opérations
À travers des collines de fleurs de sim
Des collines de fleurs de sim
Des collines de fleurs de sim s'allongeaient infiniment dans l'après-midi
Le mauve de la fleur de sim
A rendu mauve l'après-midi sauvage incognito
Regardant la chemise déchirée à l'épaule
Je chante dans la couleur des fleurs
Ma chemise, décousue sur la bordure latérale
Ma femme est morte jeune, ma mère n'a pas encore prisé.

Haut de page

trait


Ông lái đò (Nghe)

Tôi đã gặp một chiều trên bến nước
Ông lái đò ngồi đợi khách sang sông
Gió đưa nhẹ đôi hàng lau lả lướt
Ông lái buồn đưa mắt mỏi mòn trông

Một dĩ vãng tự nghìn xưa chiếu rọi
Mỗi chiều về sống lại giữa hồn ông
Ông chỉ muốn cuộc đời xưa đen tối
Xóa nhòa đi trong cùng tận đáy lòng

Mới ngày nào trên bến sông vắng lặng
Đời buồn tênh như lỡ một cung đàn
Thuyền đò ông mang nặng sầu cô quạnh
Lẵng lờ đưa bao khách lạ sang sông

Khách qua đò ngày xưa hờ hững quá
Trả công ông để lại một vài xu
Họ với ông hai cảnh đời xa lạ
Sang sông rồi không một tiếng phân ưu

Và cứ thế giòng đời trôi lặng lẽ
Bến ngày xưa tưởng ngủ muôn đời
Ông lái đò trong tuổi già bóng xế
Còn mong gì thấy được ánh hồng tươi

Nhưng một hôm ánh hồng lên rực rỡ
Non sông rền một điệu nhạc oai hùng
Giòng sông xưa chuyển mình lên hăm hở
Muôn hoa tươi căng thẳng nhựa sống hùng

Ông lái đò giờ đây già yếu lắm
Cũng thấy lòng sống lại tuổi đôi mươi
Hồn rung mạnh trước cảnh đời tươi thắm
Nỗi mừng vui không thốt được nên lời

Từ hôm đó bến đò ông sống dậy
Bao nhiêu chiều đã đón khách sang sông
Những người khách không giống ngày xưa ấy
Họ về đây hồn nặng trĩu bên lòng

Họ về đây bụi vương mình trên nếp áo
Đường xa xăm tóc lộng gió tơi bời
Họ đi rồi ông thấy buồn áo não
Vì họ qua bến ấy một lần thôi

Và từ đó bên hàng lau lả lướt
Khách ngày xưa không trở lại sang sông
Nên mỗi chiều thả thuyền theo bến nước
Ông lái buồn đưa mắt mỏi mòn trông

Le passeur (Écouter)

J'ai rencontré un après-midi sur un quai
Un passeur qui attendait les clients voulant traverser le fleuve
Un vent léger fait frémir deux rangées de roseaux
Le passeur s'attriste, regarde de ses yeux fatigués d'attendre

Un passé datant de mille ans éclaire
Chaque après-midi ce passé revit dans son âme
Il ne veut que cette vie du passé sombre et noir
S'efface au fond de son coeur

Il n'y a pas si longtemps sur un quai désert et silencieux
La vie était ennuyeuse comme si on avait raté une note de musique
Sa pirogue chargée de tristesse et de solitude
Faisait passer dans l'indifférence tant de clients inconnus

Les clients d'autrefois étaient trop impassibles
Lui payant quelques sous pour service rendu
Ils avaient eux et lui, deux vies différentes
Une fois le fleuve traversé, pas un mot de compassion

C'est ainsi que le courant de la vie coulait silencieusement
On croyait le quai du passé endormi depuis mille ans
Le passeur à son âge avancé
Ne peut espérer voir une lumière rose et fraîche

Mais pourtant un jour la lumière rosit radieusement
Le pays entonne une musique héroïque
L'ancien fleuve se meut ardemment
De milliers de fleurs fraîches gonflées de leur essence courageuse

Le passeur est maintenant bien âgé et affaibli
Trouve aussi son coeur revivre ses vingt ans
Son âme vibre devant le beau spectacle
Sa joie n'arrive pas à s'exprimer en paroles

Depuis ce jour son quai revit
Bien des après-midi à faire passer des clients
Qui ne sont pas comme ceux d'antan
Ils reviennent l'âme bien chargée à côté du coeur

Ils reviennent la poussière tapisse les plis de leur chemise
La longue route leur fait dresser les cheveux au vent
Le vieux passeur se sent triste qu'ils soient partis
Car ils ne prennent qu'une fois ce quai

Depuis ce jour-là les clients d'antan ne reviennent plus
Traverser le fleuve aux rangées de roseaux frémissants
Ainsi chaque après-midi qu'il laisse sa pirogue suivre le quai
Le passeur s'attriste, regarde de ses yeux fatigués d'attendre.

Haut de page

trait


Giấc mơ hồi hương (Nghe)

Lìa xa thành đô yêu dấu
Một sớm khi heo may về
Lòng khách tha hương vương sầu thương
Nhìn "em" mờ trong mây khói
bước đi nhưng chưa nỡ rời
Lệ sầu tràn mi, đượm men cay đắng biệt ly

Rồi đây dù lạc ngàn nơi
Ta hướng về chốn xa vời
Tìm mộng xưa lãng quên tháng ngày tàn phai

Nghẹn ngào thương nhớ "em" ... Hà Nội ơi

Ta nhớ thấy em một chiều chớm thu
Dáng yêu kiều của ngày đã qua
Thướt tha bên hồ liễu thu
Lắng tiếng tiêu buồn của ngàn phím tơ
Thiết tha thề ước ...
mối duyên hờ đã phai mờ trong bóng đêm mơ hồ

Mơ ước thấy "em" một ngày sáng tươi
Tắm nắng hồng của một sớm mai
Say hương thanh bình khắp nơi
Lắng tiếng huy hùng của từng lớp trai
Cất cao lời hứa xây cuộc đời
Sầu tàn trong bóng đêm dài

Rồi đây dù lạc ngàn phương
Ta hướng về chốn quê nhà
Cùng dìu nhau sát vai sống trong tình thương

Để cùng say giấc mơ hồi hương

Le rêve de retour (Écouter)

J'ai quitté un matin la chère cité
Quand revenait le vent d'automne.
Le coeur du voyageur épris de mélancolie,
Il regarda sa bien-aimée disparaître dans la brume fumante,
S'éloigner les pas hésitants,
Les larmes aux yeux, les larmes d'amertume, adieu !

Plus tard, que je sois perdu aux quatre coins du monde
Je me retournerai vers l'horizon
Pour retrouver les rêves du passé et oublier les jours, les mois qui se fanent
En sanglots, je pense à elle, oh! Hanoi.

Je pense la voir une après-midi de début d'automne,
La silhouette gracieuse des jours passés,
Des pas souples au bord du lac parsemé de saules pleureurs.
Écouter le sons tristes des flûtes, des millers de cordes de soie,
Jurer avec sincérité
Pour cet amour perdu, qui se fane dans l'obsurité de la nuit illusoire.


Je rêve et je pense à elle, un jour lumineux
Qui se baigne au soleil matinal.
Enivré du parfum de paix partout.
Écouter les voix décidées de vagues d'hommes
Qui sermonnent et disent haut de construire la vie.
La tristesse prend fin dans la longue nuit.

Plus tard, que je sois perdu aux quatre coins du monde,
Je me retournerai vers le pays natal
Épaule contre épaule nous nous accompagnons dans une vie d'amour,
Pour tisser ensemble le rêve de retour.

Haut de page

trait


Notes :

[1]. Dans la période 1954-1975 le Vietnam a été partagé en deux États distincts au niveau du 17e parallèle : au nord c'était le République démocratique du Vietnam et au sud, la République du Vietnam.

[2]. Voir G. Boudarel, Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam, Bertoin, 1991, 301 p.

[3]. V : vườn (potager); A : ao (mare) ; C : chuồng (abri pour bêtes)

[4]. Monnaie vietnamienne : 1€ vaut 25.500 đồng en 2009.





Suite



Sommaire de la rubrique